Liên Minh Soviet (Советский Союз)

lethienov

Thành viên thường
ĐỀ ÁN DỊCH SÁCH GIÁO KHOA LỊCH SỬ NGA RA TIẾNG VIỆT

Dự án vẫn đang trong quá trình thực hiện, hiện đã được khoảng 1/3 khối lượng công việc
Cuốn sách này được biên soạn năm 1999, tức sau khi Liên Xô sụp đổ, cập nhật tới năm 2000, gồm 16000 từ do 1 trường đại học ở Nga biên soạn cho sinh viên, vì thế không tránh khỏi có những phần nó “tự sướng” về trường, thành phố của nó, mình xét thấy phần nào không có giá trị thì mình sẽ lượt bỏ.

Cuốn sách không quá lớn nên mình không kỳ vọng đây sẽ là 1 nguồn tư liệu đồ sộ cho các bạn tham khảo, quan trọng là cho các bạn biết cách nhìn nhận của chính người Nga về lịch sử Nga, về các nhân vật và sự kiện lịch sử như Stalin, Lenin, Khrusov, Pi ốt, quan hệ với Ukraina, Belarus, Serbia...Và tránh bị dắt mũi, nhồi sọ bởi các tài liệu tiếng Việt, tiếng Anh do người Việt Nam và phương Tây viết

Dự án, bản gốc, phụ lục, tất cả ở đây https://www.dropbox.com/sh/0np2v3ezeiflhdy/AAANviS2hiZN9ytpebzGpL_Na/Lich su
Hiện đã xong những phần sau
Giới thiệu
Mở đầu
bài 1: Đông Slav vào thời cổ đại
Bài 2: RUS VÀO THỜI KỲ PHÂN RÃ PHONG KIẾN
Bài 3: ĐẤU TRANH CHỐNG GIẶC NGOẠI XÂM VÀO THẾ KỶ XIII
Bài 4: SỰ HÌNH THÀNH NHÀ NƯỚC NGA VÀO THẾ KỶ XIV - XVI
Đã bổ sung thêm hình ảnh minh họa cho bài 1
Bài 5: Nước Nga vào thế kỷ XVI dưới thời Ivan Bạo chúa

Đã bổ sung thêm hình ảnh minh họa cho bài 3

Đang dịch:
Nga vào thế kỷ XVII, phần Thời kỳ hỗn loạn và sự phát triển kinh tế xã hội.
Đang thêm hình ảnh cho bài 2

Những bài sẽ dịch
Đường lối cải cách xã hội chính ở Nga vào thế kỷ XVIII
Đế quốc Nga trong điều kiện hình thành nền văn minh công nghiệp (cực dài)
Nước Nga vào thế kỷ XX

Bài trắc nghiệm, khái niệm, mốc sự kiện.
 

vinhtq

Quản lý chung
Помощник
TỔNG QUAN LỊCH SỬ NGA
(lethienov NuocNga.Net)​

MỞ ĐẦU
Lịch sử là môn khoa học, nghiên cứu quá khứ trong tương quan phát triển của xã hội loài người. Lịch sử là ký ức tổng quát về nhân loại, giúp cảnh báo cho tương lai dựa vào những sai lầm đã được ghi nhận, giúp chúng ta nhận thức được hiện tại. Môn khoa học, nghiên cứu về quá khứ của nước Nga, được gọi là môn Lịch sử Nga.

Nước Nga được hình thành và phát triển như một đế chế đa dân tộc. Nước Nga đã mở rộng và sát nhập một vùng lãnh thổ rộng lớn cho mình, suốt tới tận cuối thế kỷ XIX, từ cửa sông Đa nuýp và Vistula ở phía Tây cho tới Thái Bình Dương ở phía Đông, từ đài nguyên Á Âu ở phía Bắc cho tới Thổ Nhĩ Kỳ và I rắc, Afganistan và Trung Quốc ở phía Nam.

Nước Nga hiện đại có diện tích lãnh thổ 17125 nghìn kilomet vuông, dân số 144 triệu người. Trong đó dân cư đô thị chiến 81,5%. Trên lãnh thổ Liên bang Nga có hơn 100 dân tộc đang cùng sinh sống. Ở Nga có 1066 thành phố và 1070 thị trấn. Thủ đô là Moskva (Moscow). (số liệu mình cập nhật tới 2014)
Nga – nhà nước liên bang dân chủ với chính thể cộng hòa. Đất nước gồm có 22 nước cộng hòa (tính luôn Crimea), 6 vùng biên (krai), 49 tỉnh, các thành phố trực thuộc trung ương là Moskva, Saint Peterburg, Sevastopol, cùng với 10 tỉnh tự trị và khu tự trị. Tất cả được gọi là chủ thể của Liên bang Nga. Ngôn ngữ chính thức của Nga là tiếng Nga.

Lãnh đạo nhà nước là Tổng thống liên bang Nga, có nhiệm kỳ là 4 năm. Cơ quan đại diện và lập pháp của Nga là quốc hội Nga, gồm có 2 viện là Duma Quốc gia Nga (Hạ viện) và Hội đồng liên bang (Thượng viện).

Từ năm 1991 Nga là thành viên của Cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG), gồm 11 quốc gia của Liên Xô cũ.

Ở Nga hiện đang thực hiện quá trình chuyển đổi sang chế độ dân chủ và nền kinh tế thị trường.


1. ĐÔNG SLAV VÀO THỜI CỔ ĐẠI
Sự hình thành dân tộc Nga cổ đại.

Sự hình thành dân tộc Nga cổ đại là kết quả của những quá trình lịch sử lâu dài và phức tạp, trải dài vài nghìn năm. Cứ liệu đầu tiên về người Slav (Xờ la vơ) (từ thế kỷ I – VI trước CN) có thể được tìm thấy từ các nhà sử học Hy Lạp, Rô ma, Ả rập, Sirya và Vyzantine (hay Byzantine). Các tác giả đã nhắc tới người Slav với tên gọi Ant, Vened, Sklavin. Họ sống ở khu vực từ nước Đức chạy về phía đông: từ đảo Elba và sông Oder tới trung lưu sông Dnepr; từ bở biển Ban tích tới trung và hạ lưu sông Đa-nuýp và Biển Đen.

Vào đầu thiên niên kỷ thứ nhất sau CN, người Slav sống trong các công xã thị tộc. Tất cả các công việc được thực hiện bởi một tập thể lớn. Mỗi công xã chiếm hữu một vùng lãnh thổ nhất định. Kết quả của quá trình phân chia và hợp nhất các bộ tộc dẫn tới những cộng đồng thống nhất mà tên gọi được dựa trên tên của khu vực sinh sống.
Vào thế kỷ VI SCN từ cộng đồng Slav thống nhất, tách ra nhánh Đông Slav. Những cộng đồng thị tộc Đông Slav lớn: Polyane – ở khu vực gần sông Kiev, Viatichi – trên dòng Oka và Moskva, Krivichi – thượng lưu sông Dnepr. Trong đó phát triển nhất là Polyane. Sự xuất hiện các liên minh bộ lạc dân tới sự hình thành các tổ chức tập trung một cách không thể tránh khỏi. Đã xuất hiện các thành phố, tại đó có chính quyền công xã, thành lập Hội đồng (Veche), xây dựng quân đội.

Thành phố, theo quy luật, sẽ hình thành ở vùng đồi núi, nơi giao nhau giữa 2 con sông, điều này giúp bảo vệ tốt hơn trước giặc ngoại xâm. Đa số các thành phố được xây dựng trên các tuyến đường thương mại. Từ bắc tới nam ở lãnh thổ của người Slav có 1 con đường thủy gọi là “Từ Varangian tới Hy Lạp”, tức là con đường sông Volkhov, Dnepr, đây chính là trụ cột kinh tế, chính trị, xã hội của Đông Slav.

Chế độ xã hội, tôn giáo, nghề nghiệp

Đứng đầu các liên minh thị tộc ở Đông Slav là các Công tước, được chọn ta từ các quý tộc. Tổ chức xã hội của đông Slav gồm có: công xã, thị tộc, bộ tộc. Ngay từ thế kỷ VI SCN, đông Slav bước vào quá trình phân rã các thị tộc, nguyên nhân vì các kỹ thuật canh tác trồng trọt giờ đây đã có thể được thực hiện bởi chỉ 1 hộ gia đình. Sự xuất hiện những sản phẩm lao động dư thừa đã dẫn tới sự phân hóa về tài sản và tư hữu.

Nghề chính của dân đông Slav là trồng trọt: trông lúa mỳ, mạch đen, đại mạch, kiều mạch, đậu Hà Lan, đậu thường. Những ngành thủ công nghiệp quan trọng: săn bắt, ngư nghiệp. Phát triển chăn nuôi. Các vật nuôi chính là heo, bò, cừu.
Dân đông Slav là những người đa thần, họ tôn thờ những hiện tượng tự nhiên. Những vị thần của dân Slav là: Perun – thần sấm chớp, Dažbog – thần mặt trời, Stribog – thần không khí và gió, Svabog – thần bầu trời và lửa, và con trai của Svabog là Svarozhichi. Họ cũng thờ tổ tiên đã khuất.
(lưu ý Bog trong tiếng Nga tức là thần, chúa, vì thế nên tên các vị thần thường có chữ bog)
Với những điều kiện trên, vào thế kỷ VI – VII xuất hiện những sự sáp nhập lớn các thị tộc Slav, phát triển mạnh tài sản của thị tộc, hình thành quan hệ sở hữu cá nhân, tư hữu. Người Slav dần tiến lên chế độ phong kiến chủ nghĩa, dẫn tới những điều kiện tiên quyết và quan trọng cho việc hình thành nhà nước.

(Phần tiếp sau đây cực quan trọng)

Hình thành nhà nước

Một trong những biên niên sử cổ đại của Nga – “Chuyện ngày xưa” (tiếng Nga - "Повесть временных лет", tiếng Anh Primary Chronicle) kể lại truyền thuyết về sứ mệnh của người Varangian – dân tộc phía bắc (người Norman) làm lãnh đạo cho nước Rus (hiện nay Việt Nam gọi là Nga, dễ gây nhầm lẫn với Rossia – Nga ngày nay). Biên niên sử kể lại rằng, người Đông Slav vào năm 862 tề tựu về phía một công tước Varangian là Ryurik với thỉnh cầu làm lãnh đạo Liên minh các bộ tộc. Ryurik bắt đầu trị vì ở Novgorod (Nov – mới, gorod – thành phố). Người Varangian đã đặt sự khởi đầu cho triều đại Đại công quốc Ryurikovich. Biên niên sử này nhận được những sự đánh giá khác nhau của các chuyên gia. Phe ủng hộ Norman (gồm các nhà khoa học Đức, được mời tới Nga như Baiwer và Muller) thì đề cao vai trò của công tước vùng Scandinavi trong việc hình thành nhà nước Nga.

(có người xem Novgorod là 1 thủ đô của Nga. Không như Việt Nam có rất nhiều triều đại, lịch sử phong kiến Nga chỉ có 2 triều đại đó là Ryurikovich và Romanovich! )

Còn phe AntiNorman (đại diện là Tatishev, Lomonosov) thì phủ nhận tất cả vai trò của người Norman, họ nhấn mạnh rằng, nhà nước Nga được hình thành là kết quả tất yếu của quá trình phát triển xã hội lâu dài.
Về tên gọi Rus (Русь) thì vẫn còn nhiều tranh cãi. Tồn tại nhiều quan điểm khác nhau. Biên niên sử thì gọi người Varangian là rus. Các nhà khoa học thì cho rằng cái tên này bắt nguồn từ tên gọi của các con sông Ros, Ra. Nhà sử học Gumilev bày tỏ quan điểm rằng đó là một bộ lạc ở phía nam nước Đức. Hiện nay một số nhà sử học gọi cư dân Rus bằng thuật ngữ “Slav-rus”.
Vào năm 882 diễn ra sự thống nhất quan trọng của các công quốc Đông Slav. Công tước Novgorod là Oleg chinh phục Kiev, thành phố này sau đó trở thành trung tâm của nhà nước Nga. Nước Nga Kiev (Kievan Rus) ra đời.
(như vậy Kiev được xem như thủ đô đầu tiên của Nga, và lúc này Nga gồm nhiều công quốc, trong đó lớn nhất là Kiev)

Chế độ chính trị

Đứng đầu nhà nước là công tước, được trợ giúp bởi Duma Boyar (Hội đồng Bô lão). Trong Duma Boyar gồm có các Boyar (bô cmn lão), các đội viên. Các đội viên trở thành các chủ sở hữu ruộng đất. Hội đồng Veche và Hội đồng dân tộc cũng tồn tại.

Các thành phố được lãnh đạo bởi các Posadnik công quốc (thủ lĩnh các thành phố) và Voevoda (tướng lĩnh). Các sử liệu tới thế kỷ XIII có nhắc tới 224 thành phố. Người thân, họ hàng của công tước và thủ lĩnh các vùng đất riêng (lãnh chúa chăng?) là các hầu tước (dưới quyền công tước). Các lãnh chúa phong kiến phải nộp cống vật cho công tước, nhưng những gì thuộc lãnh địa của họ thì họ được độc lập quyết định.
(mỗi thành phố là trung tâm của 1 công quốc, công tước đứng đầu mỗi công quốc, Rus được hiểu là tập hợp của các công quốc, công tước của Đại công quốc Kiev)

Sự du nhập của Ki tô giáo và ý nghĩa lịch sử


Thời khắc quan trọng và bước ngoặc của quá trình hình thành nhà nước Nga là sự du nhập Ki tô giáo. Sự du nhập Ki tô giáo bắt đầu từ rất lâu trước khi được công nhận là tôn giáo chính thức cấp nhà nước. Thời điểm chấp nhận Ki tô giáo được tính vào năm 988, công tước Kiev là Vladimir kỳ vọng không chỉ thống nhất Đông Slav về mặt lãnh thổ, mà còn muốn củng cố đất nước bằng sự thống nhất về mặt tôn giáo.

Mối liên hệ lâu dài và bền chặt giữa Nga và Vizantine dẫn tới sự kiện, vào năm 988 Vladimir chấp nhận Ki tô giáo nhánh Chính thống. Sự chấp nhận Ki tô giáo nước Nga Kiev lên ngang tầm với những nhà nước lân cận, ảnh hưởng sâu rộng tới lối sống cũng như tập quán của nước Nga Cổ đại, tới chính trị cũng như các quan hệ pháp lý.

Ki tô giáo giúp cho nước Nga đạt được rất nhiều thành tựu văn hóa, nghệ thuật, hội họa, văn học, âm nhạc.

Yaroslav Anh minh

Nước Nga Kiev đạt cực thịnh dưới triều đại của Vladimir Yaroslav (đọc là Da rốt sờ láp). Yaroslav được gọi là Anh minh vì những hoạt động trên nhiều lĩnh vực, và ông là người khai sáng đầu tiên của Nga. Ông đã mời những nhà hoạt động văn hóa, các thợ thủ công của châu Âu về Nga. Vào thời của ông cũng bắt đầu viết sử. Tại Kiev bắt đầu xây dựng đại giáo đường Sophia, được thành lập trên cơ sở của tu viện Kiev-Pecher. Yaroslav bắt đầu xây dựng các luật cơ bản, được gọi là “Luật Nga”. Vào thời Yaroslav đã củng cố bền chặt hơn mối quan hệ với Thụy Điển, Nauy, Pháp, Ba Lan, Vizantine.

Mức độ phát triển của nước Nga cổ đại rất cao vào thời gian này, ngang tầm với châu Âu. Nhưng vào cuối thế kỷ XI tình hình đã bắt đầu thay đổi. Nhà nước Kiev trở nên phân liệt bởi nhiều công quốc nhỏ.
 

vinhtq

Quản lý chung
Помощник
VOV.VN - Việt Nam đã được Liên Xô trước đây và Liên bang Nga hiện nay hỗ trợ rất nhiều về mặt quân sự.

Ngày 17/12, tại Tổ hợp đa chức năng Hà Nội - Moscow (Incentra) ở thủ đô Moscow đã diễn ra Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam và 25 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân.

Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày thành lập QĐND Việt Nam tại Nga

Tham dự Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam và 25 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân do Đại Sứ quán Việt Nam tại Nga chủ trì có Thượng tướng Oleg Salyukov - Tư lệnh Lục quân, Lực lượng Vũ trang Liên bang Nga; các sỹ quan của các Cơ quan Tùy viên quốc phòng các nước tại Nga, các cựu chiến binh Nga từng công tác tại Việt Nam, đại diện các tổ chức hội đoàn trong cộng đồng người Việt và lãnh đạo các phòng ban của Đại Sứ quán Việt Nam tại Nga.

Tại buổi lễ, Đại sứ Đặc mệnh Toàn quyền Việt Nam tại Nga Nguyễn Thanh Sơn đã đọc diễn văn điểm lại lịch sử vẻ vang, hào hùng của Quân đội Nhân dân Việt Nam trong chặng đường 70 năm qua; khẳng định Quân đội Nhân dân Việt Nam đã kế tục xuất sắc truyền thống đánh giặc giữ nước của ông cha, mưu trí, dũng cảm, kiên cường trong chiến đấu, đã giành thắng lợi hoàn toàn trong các cuộc chiến tranh, viết tiếp những trang sử hào hùng của dân tộc và góp phần quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa. Quân đội Nhân dân Việt Nam đang tiếp tục là lực lượng nòng cốt trong nền quốc phòng toàn dân, ngày càng chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, sẵn sàng bảo vệ đất nước và nhân dân trước mọi nguy cơ, thử thách, đồng thời tích cực hội nhập quốc tế, tăng cường hợp tác nhằm cùng nhau bảo đảm hòa bình, ổn định và an ninh ở khu vực.

Đông đảo khách mời tham dự Lễ kỷ niệm

Đại sứ Nguyễn Thanh Sơn nhấn mạnh, ngày 22/12 cũng được chọn là Ngày Hội quốc phòng toàn dân là nhằm tôn vinh và phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, khẳng định quân đội Việt Nam là "từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, vì nhân dân mà phục vụ".

Trong chặng đường 70 năm qua, Quân đội Nhân dân Việt Nam luôn nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn của bạn bè quốc tế, đặc biệt là quân đội và nhân dân Liên Xô trước đây và Liên bang Nga ngày nay. Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc phòng và nhân dân Việt Nam đã và sẽ mãi ghi nhớ, biết ơn sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn này.

Ngày nay, hợp tác quốc phòng và kỹ thuật quân sự giữa Việt Nam và Liên bang Nga đang phát triển rất tốt đẹp, là điểm sáng trong quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa hai nước.

Đại sứ Nguyễn Thanh Sơn phát biểu: "Về hợp tác quân sự, Nga đã và tiếp tục là đối tác hàng đầu của Việt Nam. Thời gian qua, hai bên đã hợp tác rất hiệu quả trong việc hiện đại hóa vũ khí, trang bị và đào tạo quân nhân, góp phần nâng cao khả năng quốc phòng cho Việt Nam; đóng góp tích cực cho việc duy trì hòa bình, ổn định, an ninh tại khu vực và trên thế giới. Chúng ta tin tưởng rằng với nền tảng quan hệ tốt đẹp đó, hợp tác quốc phòng giữa Việt Nam và Liên bang Nga sẽ ngày càng phát triển, đáp ứng lợi ích thiết thục của hai nước".

Sau phần lễ trọng thể, các khách mời đã cùng nhau thưởng thức ẩm thực Việt Nam, cùng nâng cốc chúc mừng Quân đội Nhân dân Việt Nam, chúc mừng Ngày hội Quốc phòng toàn dân, chúc quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt-Nga và hợp tác quốc phòng Nga-Việt ngày càng phát triển./.

Đoan Hải/VOV-Moskva
 

vinhtq

Quản lý chung
Помощник

Photo: RIA Novosti

Chuyên mục “Nhìn lại ngày hôm qua” của đài Sputnik giới thiệu với các bạn bài mạn đàm tiếp theo về sự kiện kỷ niệm 65 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Nga-Việt vào tháng Giêng tới.

Quan sát viên đài của chúng tôi Aleksei Lensov viết: Ở cuộc mạn đàm lần trước, chúng tôi đã lưu ý rằng, trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, các hệ thống tên lửa phòng không do Liên Xô cung cấp đã tiêu diệt trên bầu trời Việt Nam khoảng 1300 máy bay Mỹ. Tất nhiên, viện trợ quân sự của Liên Xô cho Việt Nam vào thời điểm đó không chỉ giới hạn bằng các tên lửa.

Máy bay MiG nổi tiếng được cung cấp bởi Liên Xô đã chiến đấu trên bầu trời Việt Nam. Bằng những chiếc MiG đó, phi công Việt Nam tiêu diệt 350 máy bay địch. Xe tăng "T-55" cũng đã chiến đấu tại Việt Nam: trong ngày 30 tháng 4 năm 1975 lịch sử, xe tăng Liên Xô đã húc đổ cửa dinh tổng thống Sài Gòn. Và cũng không thể không nhắc đến súng trường tấn công Kalashnikov nổi tiếng thế giới.

Liên Xô không chỉ cung cấp thiết bị quân sự và vũ khí cho Quân đội nhân dân Việt Nam. Vũ khí cũng được viện trợ cho các đơn vị Mặt trận Giải phóng Dân tộc Nam Việt Nam. Chẳng hạn, tên lửa phòng không, phiên bản nhỏ hơn của "Katyusha" nổi tiếng trong chiến tranh chống Đức Quốc Xã, và sau đó là trong trận Điện Biên Phủ đã từng có mặt tại Việt Nam. Loại tên lửa này không gắn trên xe tải mà được lắp vào chân máy, do đó có thể nói đây là phiên bản di động của "Katyusha".

Ngoài ra, đại diện tình báo Liên Xô cũng đã hỗ trợ rất nhiều cho Việt Nam. Các chuyên gia phản gián Liên Xô đã lập ra mạng lưới tình báo trong khu vực Đông Nam Á. Máy bay Mỹ cất cánh từ đảo Guam để ném bom Việt Nam liên tục bị "ngư dân" địa phương theo dõi. Mỗi khi có máy bay Mỹ cất cánh, các “ngư dân” này phát tín hiệu vô tuyến, tình báo Liên Xô tiếp nhận các tín hiệu đó và giải mã chúng. Các thông tin đó kịp thời được thông báo cho cơ quan quân sự Việt Nam, để đưa ra các biện pháp chung đối phó với kẻ thù và giảm thiểu thiệt hại cho quân dân Bắc Việt Nam. Thông tin kịp thời thu được về kế hoạch quân dù Mỹ đổ bộ xuống miền Bắc để giải phóng phi công bị bắt sống cũng đã được kịp thời báo cho ban chỉ huy quân sự Việt Nam. Khi quân Mỹ nhảy dù xuống ngôi làng giam giữ tù binh, tất cả khu doanh trại đều trông vắng, không hề có bóng dáng người nào.

Để làm việc với các thiết bị quân sự của Liên Xô, các trường đại học và các học viện quân sự của Liên Xô đã đào tạo quân nhân cho Việt Nam. Chỉ riêng trong các năm 1966 và 1967, Liên Xô đã huấn luyện 5 trung đoàn tên lửa phòng không cho quân đội nhân dân Việt Nam với quân số là 3000 người. Tổng cộng, hơn 10 000 sĩ quan Việt Nam đã đào tạo tại các trường đại học của Liên Xô. Trong số đó có các vị chỉ huy trong tương lai của Quân chủng phòng không và không quân - Thiếu Tướng Lê Văn Chí, Trung Tướng Nguyễn Văn Thạc, Tổng Tham mưu trưởng Không quân, Thiếu tướng Nguyễn Phúc Thái, anh hùng QDDNDVN Phạm Trường Vũ và nhà du hành vũ trụ trong tương lai Phạm Tuân... Sau Chiến thắng, các trường đại học và học viện quân sự Liên Xô mà họ theo học đã được trao tặng Huân chương của Việt Nam.

Sử gia Moskva Maxim Syunnerberg cho biết:

“Theo số liệu chính thức của Bộ Quốc phòng Liên bang Xô viết, từ tháng 7 năm 1965 đến tháng 12 năm 1974, khoảng 6 500 tướng lĩnh và sĩ quan, 5000 binh sĩ và hạ sĩ của các lực lượng vũ trang Liên Xô đã tham gia chiến sự ở Việt Nam. Hơn 2000 người trong số đó đã được trao giải thưởng nhà nước của Liên Xô và hơn 3000 người được tặng huân chương và huy chương của Việt Nam.”

Các nhà lãnh đạo Trung Quốc ngay lập tức bác bỏ yêu cầu bố trí hành lang trên không và cho mượn sân bay Côn Minh để Moskva kịp thời trung chuyển hàng viện trợ quân sự và vũ khí của Liên Xô cho Việt Nam. Sau những lần đàm phán lâu dài, đã đạt được thỏa thuận về việc vận chuyển hàng hoá qua lãnh thổ Trung Quốc bằng đường sắt. Tuy nhiên, ở Trung Quốc, các toa tàu kín Liên Xô đã bị mở kẹp chì và thậm chí bị đánh cắp. Do vấn đề này, Liên Xô quyết định chuyển hàng cho Việt Nam qua tuyến đường biển, từ các cảng Biển Đen và Viễn Đông của Liên Xô. Nếu như tất cả các lô hàng gửi bằng đường biển trong năm 1970 được sắp xếp vào các toa vận tải đường sắt, đoàn tàu đó sẽ kéo dài tới 800 km!

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, trung bình hàng tháng có 40 chuyến tàu biển Liên Xô chở hàng tới cảng Hải Phòng, Hồng Gai và Cẩm Phả. Chặng đường cuối cùng khi sắp tới Việt Nam thực sự là đường ra trận. Bởi vì, tàu Liên Xô đi qua khu vực mà Mỹ coi là khu vực hoạt động quân sự chống các lực lượng yêu nước Việt Nam. Và nếu như trong toàn bộ cuộc kháng chiến chống Mỹ, tổng cộng tổn thất các chuyên gia quân sự Liên Xô tại Việt Nam là 13 người, trong đó có 4 người hy sinh tại vị trí chiến đấu, thì đến đầu năm 1969, có 6 thủy thủ Liên Xô mang hàng viện trợ đến cho Việt Nam bị hy sinh, và cả 6 người đó đều hy sinh khi đang làm nhiệm vụ.

Để tiếp nhận hàng viện trợ, các chuyên gia Liên Xô đã xây dựng hàng chục km bến bãi mới. Mọi thứ xăng dầu cần thiết cho hoạt động của các cơ sở quân sự và thiết bị kỹ thuật của Liên Xô được đưa sang cảng Hạ Long. Từ đây, các chuyên gia Liên Xô đã lắp đặt đường ống dẫn xăng dầu. Đến khu vực Hà Nội, đường ống chạy qua dưới đáy sông Hồng, và tiếp theo, nhiên liệu được dẫn đi xa hơn nữa bằng đường ống kim loại để lên núi, qua đường mòn Hồ Chí Minh. Thời kỳ đó, Liên Xô đưa tới Việt Nam 700.000 m3 xăng dầu/năm.

Khi Mỹ thả thủy lôi phong tỏa cảng Hải Phòng, hàng chục tàu chở hàng Liên Xô không chịu rời cảng. Và trong suốt tất cả những tháng Hải Phòng bị Mỹ phong tỏa, sự hiện diện của tàu Liên Xô đã góp phần cứu thành phố khỏi bị hủy diệt.

Khi cuộc chiến tranh biên giới năm 1979 xảy ra, Moskva đã hỗ trợ Hà Nội chống sự tấn công của Trung Quốc. Đó sẽ là chủ đề cuộc mạn đàm tiếp theo trong loạt bài nhân kỷ niệm lần thứ 65 ngày thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước chúng ta mà chúng tôi sẽ phát vào tuần tới.

Nguồn: ruvr ru
 

vinhtq

Quản lý chung
Помощник

© Photo: East News

Chuyên mục “Nhìn lại ngày hôm qua” của đài Sputnik giới thiệu với các bạn bài mạn đàm tiếp theo về sự kiện kỷ niệm 65 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Nga-Việt vào tháng Giêng năm 2015.

Quan sát viên đài của chúng tôi Aleksei Lensov viết:

Lần trước, chúng tôi đã nói về tầm quan trọng của viện trợ Liên Xô đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ và giải phóng hoàn toàn miền Nam Việt Nam. Năm 1979, sự viện trợ cần thiết cũng đã được Moskva dành cho Hà Nội trong cuộc thử thách nghiêm trọng mới – khi Trung Quốc mở cuộc tấn công vào nước cộng hòa. Đó là cuộc tấn công mạnh mẽ nhất từ phía Bắc trong vòng hơn hai thiên niên kỷ, với lực lượng thực hiện lên đến 600.000 người.

Để biểu thị sự ủng hộ đối với Việt Nam và chuyển hướng một phần quân đội Trung Quốc khỏi phía Nam, sáu quân khu Liên Xô được đặt trong tình trạng báo động sẵn sàng chiến đấu. Liên Xô đã điều động đến gần biên giới với Trung Quốc 29 sư đoàn bộ binh cơ giới với quân số lên đến 250.000 người. Hai sư đoàn không quân cũng được chuyển đến phía Đông, trong đó có một sư đoàn ở Mông Cổ, trên sân bay mà nếu bay tới Bắc Kinh thì chỉ mất một tiếng rưỡi đồng hồ.

Ngay từ đầu tháng Hai, khi có các thông tin đầu tiên về ý định của Trung Quốc “dạy cho Việt Nam bài học”, các tàu tuần dương và tàu khu trục của Hải quân Liên Xô đã được phái đến Biển Đông. Ngay sau khi cuộc tấn công xảy ra, ở đó đã tập trung 13 tàu của Liên Xô, đến đầu tháng Ba – số tàu Liên Xô lên đến 30 chiếc. Kết quả sự hiện diện của tàu Liên Xô là Hải quân Trung Quốc với số lượng 300 tàu đã không có cơ hội để tham gia vào cuộc tấn công Việt Nam. Ngoài ra, các tàu của Liên Xô đảm bảo việc chuyển hàng an toàn cho Việt Nam. Chỉ riêng ở Hải Phòng, trong giai đoạn Việt Nam bị tấn công đã bốc dỡ hơn 20 tàu hàng và tàu chở dầu đến từ Liên Xô. Đồng thời, thủy thủ Liên Xô đã đối phó với các tàu chiến Mỹ, ngày 25 tháng Hai đã đỗ thành chuỗi ngoài khơi bờ biển Việt Nam với mục đích mà người Mỹ tuyên bố là “để kiểm soát tình hình". Để kìm giữ chúng không tới được khu vực hoạt động chiến sự, tàu ngầm của Liên Xô chặn các ngả đường tiếp cận của tàu Mỹ. Tàu Liên Xô đã tạo ra một rào cản trên biển mà tàu Mỹ đã không dám vượt qua và đến ngày 6 tháng 3 thì rút hết khỏi Biển Đông.

Cố vấn quân sự Liên Xô, Đại tá Gennady Ivanov cho biết:

“Sáng ngày 19 tháng 2, một nhóm cố vấn quân sự Liên Xô gồm các vị tướng giàu kinh nghiệm nhất đứng đầu là tướng Gennady Obaturov đã bay đến Hà Nội. Ngay khi vừa đến nơi, một cuộc họp với Bộ Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam đã được tổ chức, sau đó chúng tôi đã lên tuyến đầu, nơi bộ đội Việt Nam đang chiến đấu.”

Tổng bí thư Lê Duẩn tán thành đề xuất của ông Obaturov dùng máy bay của Liên Xô đưa những quân đoàn tinh nhuệ nhất từ Campuchia về mặt trận phía Bắc. Hơn nữa, Lê Duẩn chỉ thị cho các chỉ huy quân sự của Việt Nam, trước khi đưa ra bất cứ quyết định gì, phải thống nhất với các cố vấn quân sự Liên Xô. Rất đáng tiếc là về phía các chuyên gia quân sự Liên Xô đã không tránh khỏi tổn thất. Khi hạ cánh tại Đà Nẵng, máy bay vận tải Liên Xô gặp sự cố, sáu sĩ quan Xô Viết bị hy sinh.

Tướng Obaturov cũng đã báo cáo cho lãnh đạo Liên Xô về việc phải khẩn cấp chuyển đến cho Việt Nam những thiết bị và vũ khí cần thiết để đẩy lùi đối phương. Tất cả yêu cầu được đáp ứng nhanh chóng. Máy bay vận tải quân sự của Liên Xô đã chuyển cho Việt Nam nhiều tên lửa "Grad", thiết bị cho các đơn vị tình báo điện tử, cùng các phương tiện hỗ trợ chiến đấu khác.

Tất cả điều này đã xác định kết quả cuộc chiến tranh, trong đó vai trò quyết định tất nhiên thuộc về lực lượng vũ trang anh hùng của Việt Nam. Ngày 5 tháng 3 1979, Trung Quốc bắt đầu rút quân khỏi các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng. Ngày 18 tháng Ba chiến sự được hoàn toàn ngừng lại. Cuộc tấn công mạnh mẽ nhất của Trung Quốc vào Việt Nam trở thành cuộc tấn công có thời gian ngắn nhất.
Nguồn ruvr.ru
 

Khiêm Hạ Thái Sơn

Quản lý thực tập
Thành viên BQT
Сотрудник
Đọc mà muốn rớt nước mắt, Tình hữu nghị Việt-Nga mãi mãi vững bền...Đến với Tiếng Nga là cái duyên và say mê nó sẽ là cả đời...Vẫn nhớ ngày xưa còn ở trên thành phố Hòa Bình nơi có làng chuyên gia người Nga, trường đại học Việt-Xô xây theo phong cách Nga, ngôi trường mình đã từng học sau bao nhiêu năm xây dựng theo phong cách Nga vẫn bền bỉ như ngày nào và chưa một lần phải tu sửa... TÔI YÊU NƯỚC NGA!!!!!!!!!!!!!!
 

vinhtq

Quản lý chung
Помощник

Photo: RIA Novosti

Quan sát viên Aleksei Lensov phụ trách chuyên mục nhắc rằng để tiến hành đàm phán hiệu quả về viện trợ quân sự và kinh tế của Liên Xô mà nước Việt Nam DCCH đang rất cần ở khoảng giao thời 1949-1950, đòi hỏi phải có chuyến đi tới Matxcơva của một trong những nhà lãnh đạo hàng đầu của nước Cộng hòa non trẻ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận lấy trách nhiệm hệ trọng này.

Suốt một thời gian dài trong giới nghiên cứu tồn tại ý niệm cho rằng Chủ tịch Hồ Chí Minh đến Matxcơva vào trung tuần tháng Chạp 1949, nhân dịp kỷ niệm sinh nhật lần thứ 70 của Stalin. Cũng có người cho rằng nhà lãnh đạo Việt Nam có lẽ đã đến Matxcơva thậm chí còn sớm hơn - vào mùa hè năm1949, trong thành phần phái đoàn Trung Quốc do Lưu Thiếu Kỳ dẫn đầu.

Mốc thời gian chính xác của chuyến đi này chỉ được khẳng định trong những năm gần đây, khi nhiều tài liệu lưu trữ tại Nga và Việt Nam được tháo bỏ tấm màn bí mật. Chuyến đi Matxcơva không tiến hành vào mùa hè mà cũng chẳng phải là vào tháng Chạp 1949, bởi khi đó Chủ tịch Hồ Chí Minh làm việc trong An toàn khu ở vùng rừng núi tỉnh Tuyên Quang. Nhà lãnh đạo công cuộc kháng chiến của quân dân Việt Nam tiến hành chuyến đi Trung Quốc và đến Liên Xôvào ngày 02 tháng Giêng 1950. Trước đó Chủ tịch đã ủy thác cho ông Võ Nguyên Giáp chuẩn bị bản báo cáo về tình hình quân sự tại Việt Nam, và căn dặn rằng: "Cần chú ý trình bày những vấn đề chính, vì Stalin sẽ nghe".

Ngày 22 tháng Giêng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến Bắc Kinh. Trong số những người mà ông gặp ở đó, có nhà ngoại giao Liên Xô Sergei Tikhvinsky. Viện sĩ tương lai đã viết trong hồi ký của mình rằng “ông Hồ Chí Minh hỏi rất nhiều về cuộc sống của nhân dân Liên Xô, về công cuộc tái thiết đất nước hậu chiến”. Tác giả Tikhvinsky nhận xét: “Rõ ràng ông Hồ Chí Minh rất muốn gặp Stalin để thảo luận về triển vọng viện trợ của Liên Xô giúp đỡ đất nước ông trong cuộc kháng chiến chống Pháp". Cũng trong cuộc gặp này, vị Chủ tịch Việt Nam đã tặng ông Tikhvinsky đồng tiền vàng của Việt Nam DCCH, định danh không phải là “đồng” như sau này, mà gọi là “Việt”. Đây là một trong những hiện vật tiền xu hiếm có của thế kỷ 20: bởi cả thảy chỉ đúc 200 đồng xu. Theo lời Chủ tịch Hồ Chí Minh, "ai sở hữu đồng xu như thế đến Việt Nam sẽ được nhận mọi sự giúp đỡ”.

Chuyên gia Việt Nam học tại Matxcơva, TS Anatoly Sokolov cho biết: “Trong khi ở Bắc Kinh, ngày 25 tháng Giêng ông Hồ Chí Minh nhận được bức điện tín từ Stalin, trong đó nhà lãnh đạo Liên Xô cảm ơn ông Hồ Chí Minh về lời chúc mừng nhân dịp kỷ niệm sinh nhật lần thứ 70. Ngày 30 tháng Giêng, Liên Xô tuyên bố thiết lập quan hệ ngoại giao với nước Việt Nam DCCH. Đến ngày 1 tháng Hai, ông Hồ Chí Minh lại nhận được một bức điện nữa từ Stalin. Nhà lãnh đạo Liên Xô thông báo sẽ rất vui mừng nếu được gặp vị đại diện của nước Việt Nam ở Matxcơva”.

Ngày 3 tháng Hai, sau khi có sự công nhận chính thức từ người đứng đầu Liên bang Xô-viết, Chủ tịch Hồ Chí Minh lên tàu hỏa rời Bắc Kinh đi Liên Xô và ngày 07 tháng Hai đã tới Chita, thành phố xô-viết ở miền Đông Siberia. Trong bức điện gửi từ đó cho Stalin, vị khách Việt Nam bày tỏ hy vọng rằng chuyến đi của ông tới Matxcơva sẽ được giữ kín. Bởi nếu người Pháp biết về chuyến đi từ Việt Nam sang Liên Xô, họ có thể thực hiện hành động chính trị và quân sự không có lợi cho cuộc kháng chiến.

Từ Chita, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi máy bay đến thủ đô. Minh chứng về điều này là lời kể của nhà ngoại giao xô-viết Nikolai Fedorenko và ông Mikhail Suslov khi đó là Bí thư BCH Trung ương đảng Cộng sản Liên Xô (b). Cả hai ông đều nhớ rằng đã ra tận sân bay “Vnukovo” đón gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh, mang theo áo ấm cho vị khách phương Nam dùng, để tránh cái lạnh trong tiết trời mùa đông băng giá của nước Nga.

Ngày 10 tháng Hai, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ở Matxcơva. Mốc thời gian này được Stalin tự tay ghi lại trong cuốn tạp chí “Liên Xô trên công trường xây dựng”, mà Chủ tịch Hồ Chí Minh cầm theo tới cuộc gặp và yêu cầu nhà lãnh đạo Liên Xô ký tên lưu niệm.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hiện diện ở Matxcơva một tuần lễ. Trong thời gian đó, đã hoạch định những hướng cơ bản về viện trợ quân sự và kinh tế của Liên bang Xô-viết dành cho Việt Nam DCCH, mà giả như không có thì việc thiết lập quan hệ ngoại giao sẽ vẫn chỉ là văn kiện có ý nghĩa tượng trưng.

Các bạn thân mến, chúng ta sẽ nói về chuyện này trong cuộc mạn đàm kỳ tới của chuyên mục “Nhìn lại ngày hôm qua” do đài "Tiếng nói nước Nga" phát thanh vào ngày 02 và 09 tháng Mười, cũng như đăng tải trên trang web của chúng tôi. Mời các bạn chú ý theo dõi.
 

vinhtq

Quản lý chung
Помощник

© Photo: AP

Tháng 10 năm 1952, Hồ Chí Minh là người đứng đầu của nhà nước được Liên Xô công nhận đã tới Moskva lần thứ hai. Giống như lần đầu tiên vào tháng Hai năm 1950, ông thực hiện chuyến đi ẩn danh. Cuối tháng Chín, từ Bắc Kinh, ông gửi cho Stalin một bức điện nói là muốn đến Moskva dưới cái tên giả, tham dự Đại hội XIX của Cộng sản Liên Xô và báo cáo với lãnh đạo Liên Xô về tình hình trong nước và các hoạt động của Đảng Lao động Việt Nam. Nguyện vọng này không phải là bất ngờ đối với Stalin. Ngay từ giữa tháng Chín, Chu Ân Lai đã gặp lãnh đạo Liên Xô ở Moskva và nói rằng sẽ có các đồng chí Việt Nam đến dự đại hội. Stalin đáp: "Họ là những người bạn của chúng tôi và sẽ là khách mời." Trong bức điện gửi Hồ Chí Minh, Stalin đồng ý để vị khách từ Việt Nam sang Liên Xô một cách không chính thức và cho biết ngày khai mạc Đại hội. Ngày 6 tháng 10, Hồ Chí Minh đã có mặt ở Moskva. Nhà sử học Moskva Anatoly Sokolov kể:

“Chuyến thăm của ông Hồ Chí Minh hầu như không được nhắc đến trong các văn bản khoa học quốc gia và các hồi ký. Có lẽ, điều đó là do tình hình đặc biệt của Đại hội Đảng XIX trong lịch sử đất nước chúng tôi. Bởi vì, cho đến nay, các văn bản của đại hội này vẫn chưa được công bố đầy đủ. Ở Việt Nam, tình hình cũng tương tự. Trong "Tiểu sử Hồ Chí Minh" chỉ có một câu nói về việc ông tham gia đại hội của Đảng Cộng sản Liên Xô.”

Có một số chi tiết đáng chú ý được nêu trong hồi ký của bà Johann Grotewohl, phu nhân của người đứng đầu CHDC Đức sau này. Đó là chi tiết nói rằng bà đã gặp Hồ Chí Minh tại Đại hội. Bà viết: "Trong bài phát biểu tại đại hội, Hồ Chí Minh đã nói về cuộc đấu tranh gian khổ của nhân dân Việt Nam và tố cáo tội ác của bọn thực dân. Tôi có cảm giác rằng những người có mặt khó có thể kìm nước mắt. Khi ông nói xong, tất cả mọi người rất cảm động. Stalin đến bên Hồ Chí Minh và ôm lấy ông."

Sau khi kết thúc Đại hội, Hồ Chí Minh còn ở lại Moskva hơn một tháng. Ông soạn thảo chương trình nông nghiệp của đảng lao động Việt Nam và lập danh sách các yêu cầu gửi ban lãnh đạo Liên Xô. Trong bức thư cho Stalin ngày 30 tháng 10, ông gửi đến lãnh đạo Liên Xô các đề nghị sau: "Nhận 50-100 học sinh tốt nghiệp trường phổ thông Việt Nam sang du học tại Liên Xô. Gửi cho miền Bắc Việt Nam pháo phòng không để trang bị cho bốn trung đoàn, 72 súng trường và 200 súng máy. Cung cấp cho nước cộng hòa hàng năm 10 tấn thuốc quinine."

Ngày 19 tháng 11 năm 1952, Hồ Chí Minh rời Moskva. Ông gửi cho Stalin một bức thư bày tỏ lòng biết ơn chân thành của mình "vì tất cả những gì Đồng chí đã dành cho tôi."

Ông Anatoly Sokolov nói tiếp:

“Trong kho lưu trữ của Nga không có bằng chứng tài liệu trực tiếp nào về cuộc gặp cá nhân của Stalin với Hồ Chí Minh trong chuyến thăm thứ hai của ông tới Moskva. Nhưng cũng có thể được giải thích việc này, bởi thực tế là ông đến ở Moskva ẩn danh. Hơn nữa, ba tuần sau khi Hồ Chí Minh về nước, Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô đã thông qua Nghị định về việc viện trợ cho VNDCCH một số lượng đáng kể các loại vũ khí và thuốc men - trên thực tế danh sách này trùng với yêu cầu của Hồ Chí Minh. Một nghị định như vậy không thể được thực hiện mà không cần sự đồng ý của Stalin. Và tất nhiên, Stalin sẽ không đưa ra quyết định mà không thảo luận trước với Hồ Chí Minh.”

Về việc viện trợ Liên Xô đã góp phần giúp nhân dân Việt Nam thực hiện thành công cuộc kháng chiến chống Pháp như thế nào, chúng tôi sẽ mô tả trong chu kỳ tiếp theo của cuộc đàm thoại "Nhìn lại ngày hôm qua" trong chương trình của đài "Tiếng nói nước Nga" phát vào thứ Năm hàng tuần, cũng như trên trang web của chúng tôi.
Nguồn ruvr. ru
 

vinhtq

Quản lý chung
Помощник

Photo:http://profilib.com/

Chúng tôi tiếp tục chương trình “Nhìn lại ngày hôm qua” nói về quan hệ Nga Việt.



Trong các cuộc thảo luận trước, chúng tôi đã nói về các nhà cách mạng Việt Nam được đào tạo tại Matxcơva, trong hệ thống giáo dục của Quốc tế cộng sản, giai đoạn những năm 20-30 thế kỷ trước. Theo các dữ liệu còn lưu giữ được cho đến ngày nay, có ít nhất 54 người đã học tại Nga thời đó. Sử gia Matxcơva Anatoly Sokolov cho biết:

“Cuối những năm ba mươi thế kỷ trước, Quốc tế cộng sản và hệ thống trường học của tổ chức này gặp rất nhiều khó khăn. Đó là giai đoạn mà ở Liên Xô đang diễn ra cuộc thanh trừng lớn, lan đến hàng ngũ những người cộng sản nước ngoài, bao gồm cả sinh viên.”

Có lẽ đã dự đoán trước sự phát triển tình hình như vậy nên cuối những năm 1936, bà Vera Vasilyeva, người phụ trách nhóm sinh viên Đông Dương của Trường đại học cộng sản lao động phương Đông đã đề nghị chuyển các nhà cách mạng Việt Nam sang Trung Quốc hay Pháp. Đề nghị này không được chấp nhận. Thay vào đó, Tổng Bí thư Ban chấp hành Quốc tế cộng sản, lãnh đạo cộng sản Bungari là ông Dimitrov nhận được công văn đề nghị giúp đỡ gửi sinh viên nước ngoài về Tổ quốc, vì "sự tiếp tục hiện diện của họ ở Nga đã trở nên không thể chấp nhận cho công việc học tập và cuộc sống." Vấn đề trong bức thư đề cập đến học viên từ các nước châu Á. Tuân theo hướng dẫn của Dimitrova, Ban liên lạc của Quốc tế cộng sản báo cáo với ông rằng đến tháng 10 năm 1938, 61 học viên đã gửi được về nước, trong đó có 3 người về Đông Dương.

Một thời gian sau khi Quốc tế cộng sản giải tán, đến cuối năm 1938, Viện các vấn đề dân tộc và thuộc địa cũng đóng cửa. Mùa thu năm 1938, ông Hồ Chí Minh rời Matxcơva với mục đích về nước. Đầu năm 1939, ông Nguyễn Khánh Toàn sang Trung Quốc để làm việc với một nhóm các nhà cách mạng Việt Nam.

Hiện nay còn có lưu giữ được một số tài liệu từ những ngày cuối cùng của Viện các vấn đề dân tộc và thuộc địa. Đó là Danh sách các học viên được chuyển sang Tổ chức quốc tế hỗ trợ các nhà cách mạng (MOPR) có trụ sở tại Matxcơva. Trong danh sách này có hai người Việt Nam. Đó là Shan Peton và Claude Jean, những người cuối cùng đến Matxcơva để học khóa 1935.

Tên thật của Shan Peton là Nguyễn Văn Nem, người gốc Bắc Bộ, đến Matxcơva từ Marseilles. Jean Claude tên thật là Tran Don Phuong, người Hải Phòng, từng làm đầu bếp và thủy thủ ở Pháp, thành viên MOPR từ năm 1930, là người tổ chức cuộc đình công của thủy thủ Đông Dương tại cảng Le Havre (Pháp) trong năm 1931.

Có lẽ họ là một trong số ít học viên Việt Nam của hệ thống Quốc tế cộng sản ở lại Nga sau khi hệ thống giải tán. Ngoài hai người đó, có thể còn thêm một học viên khác ở lại Nga là Remy - tên thật là Trần Văn Kiệt. Ông là người Vĩnh Long, từ năm 1930 sống ở Pháp, là thành viên huynh đoàn Đông Dương ở Marseille và Toulouse. Đến Nga năm 1931 và sau khi học tại Trường đại học cộng sản phương Đông, theo một số nguồn tin, ông đã trải qua đào tạo tại trường quân sự đặc biệt của Quốc tế cộng sản.

Dấu vết tiếp theo của các nhà cách mạng Việt Nam có tên trong tài liệu Quốc tế cộng sản như Remy, Shan Peton và Claude Jean đã bị mất. Có lẽ khi ở lại nước Nga, họ là những người Việt Nam tự nguyện gia nhập Hồng quân khi Đức quốc xã tấn công Liên Xô.
Nguồn ruvr .ru
 
Top