Em xin lỗi vì chủ đề lâu rồi : Nhưng mà cái này : “Он закончил институт” vẫn nói được ạ!Nghĩa tiếng Việt đều là kết thúc, nhưng khác nhau ở phạm vi dùng:
Закончить, заканчивать - kết thúc công việc, hành động … nói chung.
Окончить - оканчивать – kết thúc quá trình học tập, đào tạo nào đó. Khi đó nó là Cụm từ bền vững (Устойчивое словосочетание)
Cho nên thường nói: “Он окончил институт” nhưng không nói “Он закончил институт”
Nói “Он закончил институт” là kiểu nói "đại" trong cuộc sống, không đúng với văn chương tiếng Nga.Em xin lỗi vì chủ đề lâu rồi : Nhưng mà cái này : “Он закончил институт” vẫn nói được ạ!
Tự học mà ít tiếp xúc cũng hơi khó để hiểu tường tận, bạn viết như trên là khá lắm rồi (2 lỗi nhỏ).Здравствуйте! Можете разъяснить мне слова: разъяснять и объяснять? Упражняться, тренироваться и практиковать? Зарплата, заработок и плата? Как они используются?
Я самоучка язык поэтому выше может быть, написала не грамотно. Исправляйте помогать мне, пожалуйста. Большое спасибо вам!
Câu hỏi hay đấy, nhiều người Nga cũng còn khó phân biệt 3 từ này. Điểm khác nhau chủ yếu là:Mọi người có thể giúp em phân biệt ý nghĩa và cách dùng của hai tính từ бывший và прежний không ạ ?
“Кушать подано, прошу к столу” - Đó là một cách diễn đạt từ những bộ phim cũ. Trong tiếng Nga hiện đại, tốt hơn hết là không sử dụng từ "кушать".Chào cả nhà!
Tuy mới tham gia TiếngNga.net, thấy nhiều người nhiệt tình học tiếng Nga nên cũng muốn đóng góp "viên gạch" nhỏ xây dựng ngôi nhà chung.
Vì hai ngôn ngữ rất khác nhau nên khi đã học tiếng Nga được ít nhiều ta thấy có nhiều vấn đề (cụm từ, văn cảnh...) thông thường trong tiếng Nga nhưng với người Việt thì khó phân biệt để sử dụng cho hay, để bài viết chính xác. Xin tạm gọi Chủ đề này như trên hay chính xác hơn là "Тонкости русского языка".
Thiết nghĩ, ta có thể đưa lên đây những gì đặc thù, tinh tế... của tiếng Nga để bàn luận thêm, những người đã biết sẽ biết rõ hơn, các bạn mới học tiếng Nga có cơ sở nâng cao thêm hiểu biết .
Xin đưa ví dụ 2 động từ rất thông thường ai mới học cũng biết là “кушать” và “есть”.
Chúng có những điểm khác nhau mà trong tiếng Việt không có (cho nên đều dịch là “Ăn” cả).
Người Nga thường nói: "Кушают только свиньи, а люди едят".
Động từ “есть” sử dụng trong ngôn ngữ văn học, trong cuộc sống hàng ngày nói chung, nó mang tính trung gian, phổ cập. Cho nên nói “Я ем”, “Ты ешь”... lúc nào cũng được.
Trong khi đó động từ “кушать” chỉ nói trong phạm vi những người gần gũi, thân mật với mình, nhiều lúc có thể dịch là :chén", :nhậu"... Khi nói với trẻ em: “Хочешь кушать?”; “Скушай вот это!”, hoặc mời khách thân quen trong bữa ăn, ví dụ: “Кушать подано, прошу к столу”. Và rất ít khi nói “Я кушаю”, “Вы кушаете” với những người ít quen biết.
Tôi thấy các điểm khác như vậy, các bạn bàn thêm!
Nếu mọi người thấy mục này có ích thì xin tham gia, gặp những từ, cụm từ, cách dùng... “khó khăn” nào thì cứ post lên, ta cùng bàn luận.